Thứ Tư, 16 tháng 6, 2010

CÁC XTEROID (STEROID) HÓC MÔN NAM - ĐỒNG HOÁ CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG VÀ TÁC DỤNG ĐỐI VỚI KHẢ NĂNG VẬN ĐỘNG


T.D. Fahey (1998): Các steroid hoócmôn nam - là các steroid đồng hoá: cơ chế hoạt động và tác dụng đối với khả năng vận động. Trong bách khoa về y học và khoa học thể thao, T.D. Fahey (Chủ bút), Internet về Khoa học thể thao: http://sportsci.org 7/3/1998.



     Steroid đồng hoá là những loại thuốc tương tự như các kích thích tố nam (đôi khi được gọi là hócmôn nam) như là testosterone (Hình 1). Các VĐV sử dụng những loại thuốc này với mong muốn tăng trọng lượng, sức mạnh, nội lực, tốc độ, sức bền và khả năng tấn công. Chúng được sử dụng rộng rãi bởi các VĐV tham gia vào những môn thể thao như điền kinh (phần lớn là các môn ném, đẩy), cử tạ, và bóng đá Mỹ. Mặc dù có mức độ phổ biến rộng rãi, hiệu quả của steroid đồng hoá vẫn là vấn đề gây nhiều tranh cãi. Các tài liệu nghiên cứu không thống nhất nhau về việc liệu các steroid đồng hoá có tăng cường khả năng vận động thể chất không. Tuy vậy, phần lớn các VĐV sử dụng những chất này ca ngợi kết quả có lợi của nó. Nhiều VĐV cảm thấy rằng họ không thể thi đấu thành công như họ đã làm nếu không có steroid.


      Có một vài lý do đề lý giải sự khác biệt lớn giữa những nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và những nhận xét theo kinh nghiệm. Một điều thần bí lạ thường đã nảy sinh quanh những chất này, tạo ra mảnh đất mầu mỡ cho các tác dụng trấn an tinh thần của chúng. Việc sử dụng các steroid đồng hoá trong "thế giới thực" khác nhiều với trong các thí nghiệm một ăn hai thua được kiểm soát chặt chẽ (trong một nghiên cứu dạng này cả người làm thí nghiệm và đối tượng thí nghiệm đều không thể biết ai đang dùng thuốc). Phần lớn các nghiên cứu đã không sử dụng liều lượng thuốc giống như các VĐV sử dụng. Các quy định an toàn của phòng thí nghiệm cấm áp dụng với đối tượng thí nghiệm liều lượng lớn các chất có thể gây nguy hiểm. Những đối tượng thí nghiệm ít khi giống với các VĐV tập luyện sức mạnh ở trình độ hoàn thiện. Với những điều kiện như vậy, chúng ta phải đánh giá kết quả của những nghiên cứu đúng đắn, cũng như những quan sát lâm sàng và theo kinh nghiệm, nhằm có được một hiểu biết thực tiễn về việc sử dụng, những tác dụng đối với khả năng vận động và những tác dụng phụ của các chất này.


Cơ chế làm việc của steroid đồng hoá:



      Các hócmôn nam, chủ yếu là testosterone, chịu trách nhiệm một phần về những thay đổi mang tính phát triển chủ yếu, xảy ra trong giai đoạn dậy thì và thời thanh niên. Các hócmôn nam có tác dụng đồng hoá và kích thích tố nam. Tác dụng kích thích tố nam là những thay đổi về những đặc trưng giới tính sơ cấp và thứ cấp. Những thay đổi này bao gồm sự tăng lên về kích thước dương vật và tinh hoàn, thay đổi giọng nói, mọc râu, lông nách và lông ở các bộ phận sinh dục, mức độ hăng hái tăng lên. Các tác dụng đồng hoá của hóc môn nam bao gồm sự tăng tốc về phát triển cơ bắp, xương, và các tế bào máu đỏ, và tăng cường khả năng điều khiển của hệ thần kinh. Các steroid đồng hoá đã được sản xuất ra để tăng cường những đặc tính đồng hoá (sự xây dựng các mô) của hóc môn nam và giảm thiểu những đặc trưng kích thích tố nam (có liên quan tới giới tính). Tuy nhiên, không có loại steroid nào loại bỏ được hoàn toàn tác dụng kích thích tố nam bởi vì cái gọi là tác dụng kích thích tố nam chính là những tác dụng đồng hoá thực sự ở các mô liên quan tới giới tính. Tác dụng của các hóc môn nam trên các tuyến sinh lý, mọc lông tóc, và tăng độ dầu trên mặt da là những quá trình đồng hoá ở những mô này. Những steroid với tác dụng đồng hoá có hiệu lực nhất là những steroid có tác dụng kích thích tố nam lớn nhất.


   Sự tiếp nhận steroid:
Hóc môn steroid làm việc bằng cách kích thích các phân tử tiếp nhận trong các mô cơ, kích hoạt những gien nhất định để tạo ra prôtêin (xem hình 1). Chúng cũng tác động đến tỷ lệ hoạt động của các hệ thống enzym có liên quan trong sự trao đổi chất prôtêin, vì thế tăng cường sự tổng hợp prôtêin và ngăn ngừa sự thoái hoá prôtêin (được gọi là tác dụng phòng ngừa dị hoá).


                             Màng tế bào                                      Nhân tế bào



                                               Sự tiếp nhận hócmôn



DNA
Steroid
đồng hoá
A                                           A         R                     A        R




                                                                                           Sự tạo thành Prôtêin
                                                                                               mới (ví dụ mô cơ)


                                                                           Hình1: Steroid


     Dường như cần phải tập luyện với một trở lực nặng (ví dụ: tạ nặng) thì các steroid đồng hoá mới thể hiện tác dụng tích cực đối với khả năng vận động về thể chất. Phần lớn các nghiên cứu đã cho thấy sự tăng cường về khả năng vận động ở những VĐV cử tạ có kinh nghiệm và có sử dụng steroid đồng hoá, những người có khả năng tập luyện với một trọng lượng nặng và tạo ra độ căng cơ bắp tương đối lớn trong các bài tập, là lớn hơn so với các VĐV mới tập. Tập luyện sức mạnh ở cường độ cao có thể làm tăng số lượng những vị trí tiếp nhận không bị bao bọc. Như vậy có thể làm tăng mức độ hiệu quả của steroid đồng hoá.


Tác dụng phòng ngừa dị hoá của steroid đồng hoá:
Nhiều VĐV đã nói rằng các steroid đồng hoá giúp họ tập luyện nặng hơn và hồi phục nhanh hơn. Họ cũng nói rằng việc đạt được sự tiến bộ đối với họ là rất khó khăn (hoặc thậm chí là dẫm chân tại chỗ) khi họ không dùng các loại thuốc. Steroid đồng hoá có thể có tác dụng phòng ngừa dị hoá. Điều này có nghĩa rằng nhiều loại thuốc có thể cho tác dụng phòng ngừa sự dị hoá cơ thường đi kèm với việc tập luyện ở cường độ cao. Hiện thời, giả thuyết này vẫn chưa được chứng minh hoàn toàn.
Steroid đồng hoá có thể ngăn chặn tác dụng của các hóc môn như coortizon tham gia vào quá trình làm suy nhược mô trong và sau khi tập luyện. Steroid đồng hoá có thể ngăn ngừa việc mô bị suy nhược sau một buổi tập cường độ cao. Nó cũng đẩy nhanh quá trình hồi phục. Coortizon và các hóc môn có liên quan, tiết ra bởi vỏ tuyến thượng thận, cũng có những khu vực tiếp nhận bên trong các tế bào cơ xương. Coortizon phân tích prôtêin và được tiết ra trong khi tập luyện để tăng cường khả năng sử dụng prôtêin cho việc cung cấp nhiên liệu và chống viêm đi kèm với các chấn thương mô.


Steroid đồng hoá có thể ngăn chặn sự liên kết coortizon với các khu vực tiếp nhận nó, giúp giảm suy nhược cơ và tăng cường hồi phục. Điều này có lợi trong khi VĐV sử dụng thuốc và có tác dụng ngược lại khi anh ta ngừng sử dụng. Những sự thích nghi về hóc môn xảy ra để đối phó với lượng hóc môn bất bình thường hiện diện trong cơ thể VĐV. Những khu vực tiếp nhận coortizon và sự tiết coortizon từ vỏ tuyến thượng thận tăng lên.


Sử dụng steroid đồng hoá làm giảm sự tiết testosterone. Những người ngừng sử dụng steroid cũng bị cản trở bởi lượng hóc môn nam ít hơn bình thường trong giai đoạn "nghỉ". Tác dụng dị hoá của coortizon được tăng cường khi VĐV dừng sử dụng thuốc và sức mạnh và kích thước cơ bị mất đi với tốc độ rất nhanh.


Tác dụng ngược lại của coortizon và những nơi tiếp nhận nó gây ra cho những người sử dụng steroid đồng hoá một số vấn đề nghiêm trọng: 1) Thói nghiện về mặt tâm lý có khả năng xảy ra nhiều hơn bởi vì họ trở nên phụ thuộc vào những loại thuốc này. Điều này là do họ có chiều hướng mất đi sức mạnh và độ lớn một cách nhanh chóng khi dừng dùng thuốc. Để phòng ngừa giảm thể lực, VĐV có thể muốn dùng thuốc trong một thời gian dài nhằm chống thụt lùi. 2) Sử dụng trong thời gian dài làm tăng khả năng những tác hại nghiêm trọng. 3) Coortizon triệt hoạt động của hệ thống miễn dịch. Điều này làm cho những người sử dụng steroid dễ bị ốm, như cảm và cúm, trong giai đoạn ngay sau khi dùng steroid.


Những tác dụng tâm lý:


Một vài nhà nghiên cứu tự biện rằng tác dụng thực sự của steroid đồng hoá là tạo ra một "trạng thái tâm lý" được đặc trưng bởi cảm giác về sự mạnh khoẻ, thoải mái, tăng cường về khả năng tấn công và chịu đựng căng thẳng, cho phép VĐV tập luyện nặng hơn. Một trạng thái tâm lý như vậy sẽ có lợi hơn cho những VĐV cử tạ lão luyện kinh nghiệm những người đã phát triển được những kỹ năng vận động tới mức độ áp dụng lực tối đa trong một buổi tập sức mạnh. Một chế độ ăn giàu prôtêin và kalo cũng có thể chiếm vị trí quan trọng trong việc tối đa hoá mức độ hiệu quả của steroid đồng hoá.


Steroid đồng hoá và khả năng vận động:
Tác dụng của steroid đồng hoá đối với khả năng vận động thể chất là không rõ ràng. Những nghiên cứu được kiểm soát chặt chẽ và mang tính một ăn hai thua đã đem lại những kết quả không đồng nhất. Trong những nghiên cứu cho kết quả là steroid có tác dụng hữu ích, trọng lượng cơ thể tăng lên ở một lượng trung bình là 1,6 kg, trọng lượng khối cơ tăng khoảng 2,4 kg (lượng mỡ mất đi là nguyên nhân của sự khác nhau về mức độ tăng của trọng lượng khối cơ và trọng lượng chung của cơ thể), nằm ngửa đẩy tạ giúp tăng được khoảng 6,5 kg, và ngồi xổm gánh tạ tăng khoảng 13,5 kg (những giá trị này thể hiện mức tăng trung bình đối với những nghiên cứu cho thấy tác dụng có ích). Phần lớn các nghiên cứu đã thất bại trong việc chứng minh tác dụng đối với lượng ôxy hấp thụ tối đa và khả năng sức bền. Những nghiên cứu về steroid đồng hoá điển hình kéo dài trong khoảng thời gian từ 6 đến 8 tuần và thường sử dụng các đối tượng nghiên cứu (VĐV) chưa tập luyện nhiều.


Phần lớn những thay đổi trong sức mạnh ở giai đoạn đầu tập luyện chủ yếu là do thần kinh: có nghĩa là sức mạnh tăng lên chủ yếu là do sự tăng lên về khả năng sử dụng các đơn vị vận động. Các quá trình tác động của Steroid đồng hoá kết hợp với tổng hợp prôtêin trong cơ. Những nghiên cứu kéo dài trong 6 tuần (độ dài thời gian điển hình) phần lớn phản ánh những thay đổi về thần kinh và có thể dễ dàng bỏ quên những tác dụng lên tế bào của các loại thuốc.


Lợi ích mà những VĐV sử dụng thuốc không có sự giám sát chặt chẽ thu được từ steroid đồng hoá thuyết phục hơn rất nhiều. Tăng trọng lượng từ 13,5 đến 18 kg, cùng với sự tăng lên khoảng 30 % sức mạnh, không có gì là bất bình thường. Những nghiên cứu trong trường hợp như vậy thiếu độ tin cậy bởi vì thiếu sự kiểm soát mang tính khoa học. Tuy nhiên, thật là dại dột nếu hoàn toàn coi nhẹ những quan sát đó bởi vì "những đối tượng nghiên cứu" đã được tập luyện ở trình độ cao và là những VĐV có động cơ .


Biên dịch: Mỹ Dung

Không có nhận xét nào :

Đăng nhận xét