Thứ Bảy, 1 tháng 1, 2011

LIPID (MỠ)

1. Cấu tạo và phân loại
Lipid bao gồm mỡ và các chất dạng mỡ, cấu tạo  từ hydro, oxy, photpho.
Lipid phân huỷ thành axit béo và glyxerin. Có nhiều loại axit béo. Dựa vào cấu tạo phân tử người ta chia ra hai loại - axit béo không no và axit béo no.
Những axit béo lấy từ thức ăn gọi là axit béo cần thiết.

2. Tác dụng
Cung cấp năng lượng. Lipid là nguồn cung cấp năng lượng cao. 1 gam lipid đốt cháy cho 9,4 Kcal. Lipid tích luỹ trong cơ thể là kho dự trữ lớn của cơ thể.
Cấu tạo của tổ chức cơ thể. Lipid là thành phần cấu tạo quan trọng của nguyên sinh chất, nhân và màng tế bào. Mô mỡ cố định các cơ quan nội tạng để tránh va chạm khi vận động. Lipid còn có tác dụng giữ nhiệt cho cơ thể.
Cung cấp axit béo cần thiết. Axit béo cần thiết trong cơ thể có chức năng sinh lý rất quan trọng, là thành phần của ty lạp thể và mô tế bào, là nguyên nhân tạo thành các hocmon có tác dụng thúc đẩy quá trình dinh dưỡng phát dục. Axit béo còn liên quan đến chuyển hoá cholesterol, phòng ngừa bệnh tim mạch.
Lipid là dung môi hoà tan nhiều vitamin và nhiều chất sinh học quan trọng khác.
Mỡ làm tăng vị thơm của thức ăn và cảm giác no.

3. Ðánh giá giá trị dinh dưỡng của lipid trong thức ăn
Có nhiều loại mỡ và giá trị dinh dưỡng của chúng rất khác nhau. Giá trị dinh dưỡng của mỡ do các yếu tố sau đây quyết định:

a. Tỉ lệ các loại axit béo
Axit béo no, ngoài việc cơ thể sử dụng để cung cấp năng lượng, nó còn chuyển hoá thành đường và protid.
Axit béo không no, đặc biệt là axit béo cần thiết chỉ có thể đư­ợc cung cấp từ thức ăn. Do vậy chất glyxerin của axit béo cần thiết có giá trị dinh dưỡng cao. Trong dầu ăn thực vật, lipid chuyển hoá thành axit béo không no, còn mỡ trong thức ăn động vật chuyển hoá thành axit béo no, nên dễ gây xơ cứng động mạch. Bảng 9: trình bày tỉ lệ axit béo no và không no trong các loại mỡ.
Bảng 9. Tỉ lệ axit béo và hiệu suất tiêu hoá của mỡ
Các loại mỡ
Axit béo no (%)
Axit béo không no (%)
Ðộ sôi
(%)
Hiệu suất tiêu hoá (%)
Dầu hạt bông
Dầu lạc
Dầu hạt cải
Dầu đậu
Mỡ trong sữa
Mỡ lợn
Mỡ dê
Mỡ bò
25
20
6
13
60
42
57
53
75
80
94
87
40
58
43
47
Thấp hơn
nhiệt độ
trong
phòng
28-36
36-50
44-53
42-50
50
26
22
53
3,2
8
4
2
97,2
98,3
99,0
97,5
98,0
97,0
88,0
87,0


b. Hiệu suất tiêu hoá
Hiệu suất tiêu hoá của mỡ có liên quan đến độ sôi. Axit béo không no có trong mỡ càng nhiều thì độ sôi càng thấp, hiệu suất tiêu hoá càng cao. Ðộ sôi cao hơn nhiệt độ cơ thể thì hiệu suất tiêu hoá thấp, thí dụ như­ mỡ bò, mỡ dê, Mỡ thực vật có độ sôi thấp hơn nên hiệu suất tiêu hoá cao. Chất mỡ có trong sữa hàm lượng axit béo không no ít, nhưng mỡ có ái lực với sữa nên hiệu suất tiêu hoá cao.

c. Hàm lượng vitamin
Kho dự trữ mỡ của động vật hầu nh­ư chứa ít vitamin, nhưng mỡ trong gan có nhiều vitamin A,D; trong lòng đỏ trứng và sữa có nhiều vitamin A và D, trong khi thức ăn thực vật lại có nhiều vitamin E.
Bảng 10. Hàm lượng vitamin trong mỡ (100g)
Loại mỡ
Vitamin A
Vitamin D
Vitamin E
Vitamin K
Ðầu đậu
Dầu hạt bông
Dầu hạt cải
Dầu lạc
D.lòng đỏ trứng
Mỡ lợn
Dầu gan cá
Mỡ trong sữa
-
-
-
-
2.500-5000
ít
850
1800-3000
-
-
-
-
+
0
+
+
90-120
83-92
52-64
20-36
30
0
0
2-3
-
-
-
-
+
+
-
-


4. Nguồn và lượng cung cấp lipid
Lượng mỡ trong cơ thể chịu ảnh hưởng bởi thói quen, khí hậu và điều kiện kinh tế. Do vậy phạm vi biến động rất lớn. Năng lượng cung cấp cho cơ thể chủ yếu là glucid, cho nên nhu cầu thực tế của cơ thể đối với mỡ không cao. Có tác giả cho rằng mỗi ngày chỉ cần 50g lipid là đủ. Trong ăn uống hàng ngày, theo thống kê lượng mỡ chiếm 22-25% tổng năng lượng cung cấp cho cơ thể. Năng lượng do mỡ cung cấp hợp lý nhất là chiếm 20% tổng năng lượng.
Trẻ em và những người cần tiêu hao năng lượng nhiều, nh­ư vận động viên sức bền, người làm công việc nặng nhọc, thì tỉ lệ đó cần khoảng 25-30%, người trưởng thành bình thường là 25%, không vượt quá 30%. Mùa đông khí hậu lạnh cần ăn nhiều mỡ hơn.
Tỉ lệ axit béo no và không no trong thức ăn 1,25-1,5/1 là thích hợp.
Thức ăn dùng một loại dầu mỡ thì không thể có tỉ lệ như­ trên, nên dùng dầu hỗn hợp. Nhiều loại thực phẩm có mỡ như­ thịt lợn có 90,8% mỡ, thịt lợn nạc 10,3%, thịt gà 2,5%, cá 4%, mỡ có hàm lượng cao còn ở trong các hoa quả cứng như­ hạt điều, đậu nành, hoặc trong lòng đỏ trứng, não, tim, gan, thận động vật.
Mỡ quá nhiều trong thức ăn có hại cho cơ thể, nó thường là nguyên nhân chủ yếu của bệnh cao huyết áp, xơ cứng động mạch, sỏi thận và một số bệnh khác.

5. Lipid và tập luyện thể thao
Lipid là nguồn năng lượng chủ yếu đối với sự tập luyện trong thời gian dài ở điều kiện ­ưa khí. Nói chung khi tập với cường độ thấp bằng 55%V O­2max thì axit béo mới bị oxy hoá để cung cấp năng lượng. Khi oxy không đư­ợc cung cấp đầy đủ thì sự trao đổi chất xảy ra không hoàn toàn, tạo ra nhiều sản phẩm trao đổi trung gian là xeton. Thực nghiệm chứng minh rằng, cùng một lượng vận động, thức ăn có hàm lượng lipid cao thì oxy tiêu hao tăng 10-20%. Ăn nhiều lipid làm tăng độ nhớt của máu, máu lưu thông chậm trong mao mạch, chức năng trao đổi khí của hồng cầu kém đi, do đó sức bền giảm. Vì vậy cho vận động viên ăn nhiều mỡ là không thích hợp.
Hoạt động ­ưa khí làm  cho các chất xeton, cholesterol trong cơ thể ít đ­ược hình thành, do vậy ngăn ngừa đ­ợc bệnh tim mạch. Ngoài ra, hoạt động ư­a khí còn làm cho các axit béo tham gia vào quá trình cung cấp năng lượng.
Vì vậy tập luyện môn chạy cự ly dài làm cân bằng năng lượng cơ thể, giảm trọng lượng mỡ.
Kỹ năng luyện tập có quan hệ với chức năng oxy hoá lipid, tập luyện sức bền làm tăng cường hoạt tính trao đổi lipid, nâng cao khả năng oxy hoá lipid.

 Trích “Vệ sinh dinh dưỡng và các loại thuốc đặc hiệu cho vận động viên” NXB THỂ DỤC THỂ THAO năm 1999.
 
BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ:

Protid (Đạm)
Glucid (Đường)

Không có nhận xét nào :

Đăng nhận xét